Innovative Hub Việt Nam - ủy quyền chính thức của Alibaba.com tại Việt Nam

TÌNH HÌNH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM QUÝ I 2023

Cập nhật ngày: 24/08/2023

Theo thông tin từ Tổng Cục Thống Kê, tình hình kinh tế Việt Nam trong ba tháng đầu năm 2023 vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức và

TÌNH HÌNH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM QUÝ I 2023

Theo thông tin từ Tổng Cục Thống Kê, tình hình kinh tế Việt Nam trong ba tháng đầu năm 2023 vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức và biến động trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục khó khăn. Nhiều yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới như lạm phát, suy thoái kinh tế, sự giảm sút của nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn, tình trạng bất ổn của một số ngân hàng ở Mỹ và châu Âu, giá năng lượng tăng cao và cuộc chiến giữa Nga-Ukraine đang kéo dài.

Các tổ chức quốc tế đưa ra những dự báo khác nhau về tình hình tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2023, tuy nhiên, đa số đều cho rằng tăng trưởng sẽ thấp hơn so với năm 2022. Ví dụ như IMF dự báo tăng trưởng toàn cầu đạt 2,9%, Fitch Ratings điều chỉnh dự báo tăng 0,6 điểm phần trăm, OECD dự báo đạt 2,6%, trong khi WB và UNDESA lại đưa ra dự báo bi quan hơn về tình hình tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Cùng Innovative Hub tìm hiểu về tình hình kinh tế Việt Nam quý I, 2023 trong bài viết sau.

1. TÌNH HÌNH KINH TẾ CHUNG

Trong nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung triển khai thực hiện nhiều chính sách và nhiệm vụ để phát triển kinh tế. Các kế hoạch hành động đã được xây dựng để thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau Tết Nguyên đán, nhằm tạo động lực đột phá cho kinh tế. Tuy nhiên, việc phục hồi kinh tế trong nước cũng đang gặp nhiều khó khăn và thách thức do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19.

2. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2023

Đến hết quý I/2023, tình hình kinh tế trong nước đang dần phục hồi khi tăng trưởng GDP đạt 3,32% so với cùng kỳ năm trước, với đóng góp lớn nhất đến từ khu vực dịch vụ tăng 6,79%. Tuy nhiên, khu vực công nghiệp và xây dựng lại ghi nhận mức giảm 0,4%, trong khi khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%. Điều này cho thấy tác động của đại dịch COVID-19 vẫn đang ảnh hưởng đến nhiều ngành kinh tế. Tăng trưởng GDP trong quý I/2023 được thúc đẩy chủ yếu bởi các chính sách kích thích tiêu dùng nội địa, việc mở cửa trở lại kinh tế từ ngày 15/3/2022, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch và các chính sách hỗ trợ khác.

Cơ cấu GDP của quý I/2023 được phân bổ như sau: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,66%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,47%; khu vực dịch vụ chiếm 43,65% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,22%. Về sử dụng GDP, tiêu dùng cuối cùng chiếm tỷ trọng lớn nhất với 46,11%, tích lũy tài sản đóng góp rất ít chỉ 0,14%, trong khi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,33% và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 10,52%. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, bất chấp tăng trưởng GDP đạt được, kinh tế Việt Nam còn nhiều thách thức khi phải đối mặt với các yếu tố bất ổn của thế giới như lạm phát toàn cầu, giá năng lượng tăng cao, sự bất ổn của một số ngân hàng ở Mỹ và châu Âu, chiến sự Nga-Ukraine kéo dài.

Kế đó, các khu vực công nghiệp và xây dựng gặp nhiều khó khăn trong quý I/2023. Tình trạng thiếu nguồn cung cấp vật liệu, sản phẩm, thiết bị cần thiết cho hoạt động sản xuất và xây dựng vẫn tiếp diễn, gây ách tắc cho hoạt động sản xuất và dẫn đến giảm tăng trưởng. Trong khi đó, khu vực dịch vụ là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất, nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp và khó lường.

Tổng thể, tình hình kinh tế Việt Nam trong quý I/2023 đang ổn định và có tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức cần được giải quyết, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang gặp nhiều biến động và bất ổn. Việc triển khai các chính sách kích thích kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu, và đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở sẽ là những giải pháp quan trọng để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế trong những quý tiếp theo.

3. Sản xuất nông nghiệp quý I năm 2023

Trong quý I năm 2023, ngành lâm nghiệp đã ghi nhận sự phát triển tích cực. Diện tích rừng trồng mới tập trung đã đạt mức cao là 38.7 nghìn ha, tăng 4.7% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, số cây lâm nghiệp trồng phân tán cũng đã đạt con số đáng chú ý là 27.4 triệu cây, tăng 6% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác cũng không kém phần với mức đạt 3.349.2 nghìn m3, tăng 4.2%.

Cùng với sự phát triển tích cực, ngành lâm nghiệp cũng đối mặt với những thách thức và thiệt hại không mong muốn trong quý I năm 2023. Diện tích rừng bị thiệt hại tăng lên 251.6 ha, tăng 14.2% so với cùng kỳ năm trước. Những thiệt hại này có thể gây ra sự suy giảm về tài nguyên rừng, mất môi trường sống và ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái.

Để đối phó với tình trạng này, các biện pháp bảo vệ và quản lý bền vững nguồn tài nguyên rừng cần được thực hiện. Cần tăng cường giám sát và kiểm soát việc khai thác gỗ trái phép, áp dụng các biện pháp bảo vệ rừng như trồng rừng mới, chăm sóc và bảo vệ rừng hiệu quả. Đồng thời, việc tạo ra nhận thức và thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng cũng rất quan trọng.

Bằng việc thực hiện những biện pháp này, hy vọng ngành lâm nghiệp sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đảm bảo sự cân bằng giữa việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

a) Nông nghiệp

Cho đến giữa tháng Ba năm 2023, tổng quan về tình hình phát triển nông nghiệp tại Việt Nam như sau: Trong lĩnh vực trồng lúa, cả nước đã gieo trồng thành công 2.922,3 nghìn ha lúa đông xuân, đạt tỷ lệ 98,7% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, các địa phương phía Bắc đã gieo trồng 1.042,9 nghìn ha (tỷ lệ 99,1%), trong khi các địa phương phía Nam đạt 1.879,4 nghìn ha (tỷ lệ 98,4%). Trong số đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã gieo trồng 1.478,7 nghìn ha (tỷ lệ 98,1%). Hiện nay, vùng này đã thu hoạch thành công 792,4 nghìn ha (chiếm 53,6% diện tích gieo cấy), vượt 101,9% so với cùng kỳ năm trước. Năng suất đạt 71,2 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với vụ đông xuân trước, với tổng sản lượng ước đạt 10,5 triệu tấn, giảm 145,4 nghìn tấn do diện tích gieo trồng giảm 28,1 nghìn ha.

Về lúa mùa, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn tất thu hoạch lúa vụ mùa 2022-2023. Tổng diện tích gieo trồng lúa mùa trên toàn vùng đạt 177,9 nghìn ha, tăng 6,7 nghìn ha so với vụ mùa trước. Năng suất lúa mùa trên toàn vùng đạt 51,4 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha so với vụ mùa trước. Tổng sản lượng đạt 914 nghìn tấn, tăng 32,8 nghìn tấn nhờ diện tích gieo trồng tăng. Ngoài ra, tính đến giữa tháng Ba, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 303,7 nghìn ha ngô (tỷ lệ 101,1% so với cùng kỳ năm trước), 44 nghìn ha khoai lang (tỷ lệ 95,5%), 9,9 nghìn ha đậu tương (tỷ lệ 93,4%), 97,4 nghìn ha lạc (tỷ lệ 94,9%), và 501,6 nghìn ha rau đậu

Trong vụ mùa 2022-2023, sản lượng lúa ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Với diện tích gieo trồng lúa đông xuân đạt được 98,1% so với cùng kỳ năm trước, năng suất lúa đạt 71,2 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước. Sản lượng thu hoạch đạt 10,5 triệu tấn, giảm 145,4 nghìn tấn do diện tích gieo trồng giảm 28,1 nghìn ha. Bên cạnh đó các địa phương trên cả nước đã hoàn thành gieo trồng nhiều loại cây trồng khác như ngô, khoai lang, đậu tương, lạc và rau đậu. Sản lượng thu hoạch của một số loại cây trồng lâu năm như chè, hồ tiêu, cao su và điều đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý là sản lượng sầu riêng tăng đáng kể lên tới 27,8%, mít tăng 20,7%, cam tăng 5,9%, quýt tăng 4,1%, chuối tăng 2,6% và xoài tăng 1,9%. Chỉ riêng sản lượng thanh long giảm nhẹ 2,8%.

Chăn nuôi là một ngành kinh tế quan trọng ở Việt Nam và đóng góp lớn vào nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Ví dụ, ngành chăn nuôi heo đã phải đối mặt với nhiều đợt dịch bệnh và các vấn đề về an toàn thực phẩm. Các hộ chăn nuôi thường không có quy mô lớn, kỹ thuật chăn nuôi kém, còn thiếu quản lý và giám sát chặt chẽ từ các cơ quan chức năng. Ngoài ra, ngành chăn nuôi ở Việt Nam còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố thị trường như giá thức ăn gia súc, giá cả sản phẩm, và quản lý vận chuyển và phân phối sản phẩm.

b) Lâm nghiệp

Trong quý I năm 2023, ngành lâm nghiệp đã ghi nhận sự phát triển tích cực. Diện tích rừng trồng mới tập trung đã đạt mức cao là 38.7 nghìn ha, tăng 4.7% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, số cây lâm nghiệp trồng phân tán cũng đã đạt con số đáng chú ý là 27.4 triệu cây, tăng 6% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác cũng không kém phần với mức đạt 3.349.2 nghìn m3, tăng 4.2%.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển này, ngành lâm nghiệp cũng không tránh khỏi những thiệt hại. Diện tích rừng bị thiệt hại là 251.6 ha, tăng 14.2% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy vẫn còn những thách thức cần được giải quyết để bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng của đất nước.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản tại Việt Nam tiếp tục tăng trong ba tháng đầu năm 2023, đóng góp vào sự phát triển của ngành này. Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 353,5 nghìn tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, sản lượng thu hoạch cá tra tiếp tục tăng ổn định, đạt 128,6 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2022.

Một số yếu tố đã đóng góp vào sự tăng trưởng của ngành thủy sản. Trước hết, việc Trung Quốc mở cửa thông quan cho nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là cá tra, đã tạo ra cơ hội xuất khẩu và tăng sản lượng thu hoạch. Đồng thời, giá cá tra nguyên liệu duy trì ở mức cao, cùng với việc thả nuôi và áp dụng các mô hình nuôi tôm hiệu quả như thẻ chân trắng thâm canh và bán thâm canh đã đóng góp vào sự tăng trưởng sản lượng của ngành.

Sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 32,3 nghìn tấn, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước, trong khi sản lượng tôm sú đạt 16,2 nghìn tấn, tăng 2,5%. Nhờ vào thời tiết và điều kiện tự nhiên thuận lợi, việc thả nuôi và các mô hình nuôi tôm đã mang lại hiệu quả kinh tế cao và đóng góp tích cực vào sản lượng thủy sản của Việt Nam.

Đây là những kết quả khá tích cực cho ngành thủy sản trong quý I năm 2023, cho thấy sự phát triển và tiềm năng của ngành này trong tương lai. Tuy nhiên, cần tiếp tục đẩy mạnh quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên thủy sản, đồng thời nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm để tạo sự bền vững và cạnh tranh cho ngành thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

TÌM HIỂU THÊM: TÌNH HÌNH KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRƯỚC & SAU ĐẠI DỊCH

test